Chương trình từ thiện: Ấm áp vùng cao Hà Giang
Giải cu gáy đấu lần thứ nhất mừng SN diễn đàn 5 tuổi thành công tốt đẹp
Phóng sự: Nghệ nhân dân gian Trần Lữ
Diễn đàn Cu gáy Việt Nam trên facebook

Tác giảChủ đề: "Gác Cu" - một thú vui miền đồng bằng  (Đọc 1589 lần)

0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.

Tre làng

  • Administrator
  • Hero Member
  • *****
  • Bài viết: 1234
  • Thanks 450
  • Bamboo
    • Xem hồ sơ cá nhân
    • http://omega-7.org
"Gác Cu" - một thú vui miền đồng bằng
« vào lúc: 16/04/2011 12:31:49AM »
Ông thầy thuốc Phiêu là con ông Biện Noán - một danh gia của  đất Bạc Liêu hồi đầu thế kỷ 20. Nhưng, khi hỏi ông ấy là ai thì đa số  những người được hỏi sẽ bảo: "Có phải ông "gác cu" đó không?". Nghe thật  buồn cười, nhưng nếu biết "gác cu" là gì, sẽ phải công nhận, họ đã và  đang thực hiện một thú chơi dân gian đặc biệt của đồng bằng châu thổ  sông Cửu Long.                                                                                                                            

Ông Biện Noán qua đời lâu rồi, còn ông thầy  thuốc Phiêu thì sống trong căn nhà to, cổ kính tại TP Bạc Liêu. Ðã hơn  70 tuổi, dù dáng dấp ông Phiêu toát lên vẻ lịch lãm vẫn không giấu được  đôi mắt kèm nhèm và tay chân run của tuổi xế chiều. Nhưng lạ lùng thay,  khi nhắc tới cái thú chơi dân gian như một nét văn hóa ở đồng bằng sông  Cửu Long (ÐBSCL) thì ông Phiêu như thành người khác. Ðôi mắt bỗng sáng  lên, tay chân nhanh nhẹn. Rồi ông dẫn tôi đi xem bộ đồ nghề mà ông giữ  như kỷ vật. Ông bảo: 'Già rồi, nhớ nghề, nhớ rừng lắm mà đi không nổi,  đành giữ nó lại để nhớ một thuở của mình'. Thấy tôi đề nghị ông giới  thiệu một bạn nghề để tôi đi thực tế, ông Phiêu bảo: 'Tôi dẫn cậu đi'.  Và sau khi ném về phía sau nhà một cái nhìn khó hiểu, ông nặng nhọc ngồi  lên sau xe rồi lẩm bẩm: 'Vợ con, thiên hạ chửi cả đời mà không sao dứt  nổi cái thú mê mẩn này'. Vợ chửi thì tôi mới nghe, nhưng thiên hạ chửi  nghề gác cu thì tôi nghe lâu rồi, họ ca rằng: Ở đời có bốn cái ngu - Làm  mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu! Vâng, 'cái ngu' của nghề 'gác cu' là  khi con mồi và con bổi (cu rừng) xông vào trận, chúng gù, chúng thúc  ngay cửa lụp (bẫy). Ðó là lúc người 'gác cu' dồn hết tâm trí vào cửa  bẫy, không thiết gì chung quanh, đến nỗi nghe nói ngày trước cọp hay rắn  hổ đến gần mà không hay biết. Còn vì sao bị vợ chửi thì ông Phiêu diễn  giải cho tôi nghe: 'Nhà đang buôn bán ì xèo, lúa ngoài đồng chín đỏ, chờ  gặt... Hửng sáng, nghe tiếng cu gáy - cái thứ tiếng như 'ma kêu quỷ  gọi', nó làm tứ chi ngứa ngáy. Thế là, anh thợ 'gác cu' bỏ hết việc nhà,  xách cu mồi, vác lụp ra đi, đổ hết việc nhà lên đầu vợ, vợ nó ức, nó  chửi cho'!

Vào đầu thế kỷ 20, nghề 'gác cu' được du nhập từ Tịnh  Biên sang và phát triển ra cả ÐBSCL. Thập niên 70 trở về trước, hầu  như  làng nào cũng có người làm nghề 'gác cu'. Nguồn gốc của người Khmer,  nhưng khi nghề 'gác cu' vào ÐBSCL thì người Việt tiếp nhận một cách hào  hứng và cải biến không ngừng. Ông Phiêu bảo: 'Cậu cứ nghĩ thử xem, chẳng  có ai làm nghề 'gác cu' đem bán cả. Vì giỏi lắm ngày chỉ bắt được hai -  ba con, có bữa chẳng có con nào; và cũng không phải 'gác cu' kiếm thịt  làm đồ nhắm. Gác được con cu dở thì cho người ta, được con cu hay thì  luyện thành cu mồi... Vấn đề là khoái nghe tiếng cu kêu, khoái nhìn hai  con vờn nhau nơi cửa lụp, khoái rừng rậm âm u và đồng xanh mênh mông  cánh cò. Tóm lại là thích đi lông nhông giữa thiên nhiên cao rộng'.

Ông  Phiêu kể về quá khứ 'gác cu' của mình bằng giọng ngậm ngùi, trang  trọng: 'Mười tuổi tôi đã đi theo ông Cả Kim 'gác cu'. Ngày nào tôi cũng  vác lụp, quảy lồng cu giúp ông đi lang thang trong rừng, dù cha mẹ tôi  rầy la rất dữ. Máu mê 'gác cu' càng ngày càng đậm trong người tôi. Ðến  mười ba tuổi, một hôm ông Cả Kim kêu tôi về nhà ông rồi bảo: 'Mầy bây  giờ đi 'gác cu' lẻ được rồi. Nếu muốn, ông nhận làm đệ tử, ông cho một  con mồi, bộ đồ nghề và truyền nghiệp cho?'. Tôi mừng rơn trong bụng, rồi  bảo: 'Muốn'. Thế là ông kêu tôi đến thắp nhang khấu đầu rồi lạy ra mắt  tổ nghiệp. Tổ nghề 'gác cu' được ông Cả Kim thờ trên một cái trang đỏ  chót nơi cây xiên nhà. Tôi hỏi: 'Nghề gác cu cũng có tổ nữa sao ạ?'. Ông  bảo: 'Nghề nào cũng có tổ để người làm nghề hành xử đúng đạo của  nghiệp'. Trong không gian, khói hương lan tỏa, trầm mặc và thần bí, tôi  thành đệ tử của ông trong nghề 'gác cu'. Tò mò con trẻ, tôi hỏi: 'Thế tổ  nghiệp là ai?'. Ông Cả Kim bảo: 'Người ta nói hồn người, hồn thiêng  sông núi; vậy thì rừng rú, ruộng đồng lại cũng có hồn. Hồn rừng rú,  ruộng đồng đích thị là tổ nghiệp của chúng ta. Rừng rú, ruộng đồng dung  dưỡng nuôi nấng chim muông, nên ta mới có chim chóc. Việc như vậy chẳng  lẽ không sinh ra ân nghĩa với rừng rú, ruộng đồng? Với người đã khuất,  cách đối xử duy nhất là thờ phượng, cúng kiến. Ðó cũng là một cách trả  nghĩa với thiên nhiên, với trời đất'.

Nghe câu chuyện của ông thầy  thuốc Phiêu, tôi nghĩ, ngày nay chúng ta tha thiết kêu gọi mọi người  phải hành xử có trách nhiệm với thiên nhiên, thì từ mấy trăm năm trước  nghề 'gác cu' đã khuyến cáo cho đệ tử việc ấy rồi. Trong cái mê tín ấy  thoáng hiện, thoáng ẩn một giá trị nhân văn!

Chúng tôi đến Sóc  Ðồn, xã Hưng Hội, thì đến nhà bạn nghề của ông thầy thuốc Phiêu. Ông này  người Khmer, tên Trương Suôil. Thế nhưng, hỏi cả ấp Sóc Ðồn rằng Trương  Suôl là ai thì chẳng mấy người biết, và chỉ biết có ông Hai Cu. Nghe  danh cũng biết ngay là bậc tiên chỉ của nghề 'gác cu'. Ông Hai Cu ở như  một kẻ quy ẩn, ngôi nhà nhỏ của ông nằm sâu giữa ruộng lúa, xa xa thấp  thoáng tre, me, còng, dừa... Trước mái hiên nhà treo lủng liểng năm bảy  chiếc lồng cu. Thấy chúng tôi đến, lão sư Hai Cu huýt sáo và bảo: 'Chào  khách đi các con', thế là các chú cu đồng loạt quay về phía chúng tôi  gáy vang: cù... cú... cu, đầu chúng mọp mọp như vái chào. Tôi trố mắt,  rồi chỉ biết thốt lên: 'Quả là thiện nghệ, xin bái phục!'.

Hai ông  già bảo, có nuôi cu mồi rồi cũng phải đón nhận những cuộc chia ly không  kém phần đau đớn. Bởi có những con mồi sống với người thợ hai - ba chục  năm, họ quý mến như con. Ông Phiêu kể: 'Hồi mười năm trước, con mồi của  tôi bị bệnh, trị nhiều cách nhưng không hết, cuối cùng tôi ủ ấm nó  trong lòng đến sáng đêm, vậy mà nó cũng ra đi'. Còn ông Hai Cu thì nói:  'Bảy năm trước vào mùa lúa chín, biết con mồi mà thầy tôi cho đã hơn 25  năm, bị bệnh, nhưng bận đi kêu công gặt, tôi bảo vợ tôi ở nhà đi kiếm  thuốc giùm. Mà vợ tôi lại về quê. Chiều tôi về thì con cu đã chảy nước  dãi ra miệng, sau đó thì chết. Tôi cầm con mồi trên tay mà nước mắt như  mưa. Lần đó, hai vợ chồng tôi 'hục hặc' với nhau suốt một tháng trời'.

Bên  chén rượu nồng, hai lão tiền bối 'gác cu' bảo lớp các ông mà qua đời  thì nghề 'gác cu' sẽ mai một, vì con cháu các cụ chẳng đứa nào nối  nghiệp cả. Nói thì họ bảo: 'Thời đại tân kỳ cần giải trí thì người ta  leo lên Dream chạy ào ào trên phố, ai lại dang nắng làm cái việc vô  ích'. Giọng các ông rầu rầu: 'Nghe hậu sinh nói thế, người già buồn lắm.  Thú 'gác cu' vãn cảnh chính là để cái hồn thiên nhiên vào hồn người, để  người thêm quý thêm yêu chim muông, cây cỏ... Hèn gì, thời đại tân kỳ,  người ta tàn phá thiên nhiên không thương xót'. Hai ông kể, gần đây,  nghề 'gác cu' có xuất hiện lớp hậu bối khá đông, nhưng không ra đời từ  lò 'gác cu' truyền thống, mà từ nhu cầu của các nhà hàng. Lớp này hành  nghề một cách vô đạo, dã man. Họ len lỏi khắp các vùng nông thôn, với  những tấm lưới ngang năm mét, dài mười mét và một con cu mồi. Họ khâu  mắt con cu mồi để không thấy gì, cho đứng giữa tấm lưới. Nhìn trời thấy  có bầy cu bay đến là họ giật cho con cu mồi chớp chớp cánh. Thế là cu  rừng sà xuống, họ giật cho tấm lưới bung lên cao rồi chụp xuống, không  sót một con. Cách 'gác cu' mới này có ngày bắt được hàng trăm con. Hai  ông lão của tôi bảo rằng 'Chim cu đã thưa đến 70 - 80% có khi đi dăm ba  ngày không gác được một con, giải nghệ là vừa'.

Châu thổ sông Cửu  Long - vùng đất khai mở muộn màng của cha ông, từ quá trình khẩn hoang  đã làm nảy sinh nhiều việc lạ, như nhấp cá lóc, đặt trúm và ... thú 'gác  cu'. Những thứ này góp phần làm nên nét văn hóa đặc trưng của Nam Bộ.  Bản sắc ấy giúp cho vùng đất giàu có này không lẫn với nơi khác. Thế  nhưng, thời hiện đại như đang tiến công và xóa dần một số nét văn hóa  độc đáo của châu thổ sông Cửu Long. Và cứ như thế, trong tương lai, bản  sắc văn hóa đặc trưng của Nam Bộ sẽ dễ bị nhạt nhòa, nếu hiện tại con  người không biết giữ gìn, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống.
                                                                                                                      PHAN TRUNG NGHĨA, bao nhandan                                                                                                                                                   

 

Diễn đàn Cu gáy Việt Nam trên facebook

AUTO [F9]TELEX VNI VIQR VIQR* OFF Check Spell Old Accent